MÙA XUÂN
TRONG CA TỪ CỦA PHẠM DUY
- Phan Trang Hy
Phạm Duy
viết về mùa Xuân rất nhiều. Ở đây, tôi xin nêu một vài cảm nhận về mùa Xuân qua
ca từ trong một số bản nhạc của ông.
Trong bài
hát “Một Bàn Tay” (Sài Gòn 1959), hình ảnh bàn tay được nhắc đi nhắc lại cùng với
hình ảnh 4 mùa như thể bàn tay đi suốt cả thời gian, tạo nên những cung bậc tâm
hồn của cuộc đời. Đây là cung bậc nhập vào cuộc đời đầy hân hoan, nhìn đâu cũng
thấy Xuân, cũng thấy ai cũng đáng yêu, thấy ai cũng góp lòng vun xới tình người
cao đẹp:
“Bàn tay đưa anh đi gặp cuộc đời
Một Xuân bao dung ai cũng là người
Bàn tay vun xới, ôi bàn tay đưa lối
Dọc đời, thơ hát đầy vơi”.
Còn trong
bài “Nhạc Tuổi Vàng” (Sài Gòn 1960), Xuân trong bài hát chỉ là những gì đã qua,
chỉ là kỷ niệm đẹp một thời:
“Tuổi vàng như bông lúa thơm tho ngày
mùa
Trên cành đồng chiều tà
Nhớ Xuân xa, khi còn thơ…”
Mỗi khi
Xuân về, muôn loài cũng trở mình đón Xuân. Nào là “Nắng trên thềm lấp lánh/ Lũ
bướm vàng tung cánh/Với to nhỏ chim hót trên cành”, nào là "cỏ nỏn nà”,
nào là ốc, dế, giun, chuồn chuồn, ong, nai “quấn quýt người con gái đương tơ”:
“Một con ốc nằm yên giấc ở đồi hoang
Bỏ mộng ngoan từ vỏ, vươn chào đón
Xuân
Khiến cho đàn giun dế
Cũng ngước mặt nghênh đón
Bóng dáng người con gái tươi ròn
Chuồn chuồn ngấp nghé ở vòm tre
Rồi bay tới cùng đàn ong lượn vuốt ve
Khiến cho đàn nai bé
Kéo nhau về bỡ ngỡ
Quấn quýt người con gái đương tơ”…
(Trên Đồi Xuân, Sài Gòn 1975)
Viết về những
bài hát nói về mùa Xuân, tôi không thể không viết bài ca “Tuổi Xuân” (Sài Gòn,
1973). Đọc đi, đọc lại lời bài hát và nghe Thái Hiền hát, lòng tôi như thấy cô
bé tinh khôi, bỗng dưng “dậy thì” thấy lòng mình đổi biến đổi: “Bỗng dưng yêu đời! Bỗng dưng yêu đời!”.
Cô bé trải lòng yêu thiên nhiên vũ trụ kỳ diệu, yêu quê hương đất nước đẹp ngời,
yêu mọi nơi, mọi chốn trên trái đất mỏng manh, yêu cuộc sống, cuộc đời qua bao
thăng trầm không ngơi nghỉ. Rồi, cô bé thấy lòng yêu người: “Bỗng dưng yêu người! Bỗng dưng yêu người!”.
Cô yêu từ những người gần gũi, thân yêu, từ trẻ thơ đến cụ già, từ thầy cô, đến
bạn bè, từ xóm vắng đến phố thị. Tôi như thấy tiếng lòng reo vui của cô bé: “Bỗng dưng vui nhiều! Bỗng dưng vui nhiều”.
Cô vui nhiều khi được mẹ ba nuông chìu, được anh chị thương yêu, được mọi người
tôn trọng, và hơn hết và luôn được yêu. Tôi cũng thấy hình ảnh cô bé đang lớn: “Bỗng dưng mơ màng! Bỗng dưng mơ màng!”.
Lòng cô bé rộn ràng vui khi tình yêu thương tràn ngập. Cô hát ca về tuổi xuân đẹp
của mình: “Em ca em hát, em vui rộn ràng”.
Còn “Xuân
Hành”, một bài hát với ca từ như thơ. Thơ có những bài hành như “Tống biệt
hành” của Thanh Tâm, “Hành phương Nam” của Nguyễn Bính, “Trường Sa hành” của Tô
Thùy Yên, “Biên cương hành” của Phạm Ngọc Lư. Ở đây, tôi xin nêu lời của bài
hát có tính chất của một thể hành. Nếu “Tống
biệt hành, một cuộc chia ly thường tình nhưng chứa đựng trong nó cả một vũ
trụ biệt ly” (Châu Minh
Hùng), nếu “Hành phương Nam không chỉ là khát vọng bứt phá khỏi vòng vây cơm
áo, mà hơn thế, là khát vọng của sự bứt phá khỏi kiềm tỏa của một tẻ nhạt cô
đơn. Song đáng thương, chí bình sinh đáng cảm thông ấy đã không thỏa ước, vẫn một
phương Nam cô đơn thiếu vắng tình người” (Nguyễn Tấn Ái), nếu Trường Sa hành “diễn tả tâm trạng những
người lính trấn đảo nhưng cuối cùng trở về nỗi thao thức thân phận của con người”
(Nguyễn Thị Thảo An), nếu “Có thể
nói, Biên Cương Hành là một trong những bài thơ hay nhất viết
về chiến tranh, không chỉ của thi ca miền Nam, mà cho cả nền thi ca đất Việt”
(Đỗ Trường), thì “Xuân hành” là cuộc hành trình của NGƯỜI với bao trở
trăn về phận của mình trên thế gian này. Muôn đời nay, ai cũng tự hỏi: Ta là
ai? Ta từ đâu đến? Ta sẽ về đâu? Từng có nhiều quan niệm của tôn giáo, triết học,
nghệ thuật về những câu hỏi trên.
Từng xem,
bức tranh “Chúng ta từ đâu đến? Chúng ta
là ai? Chúng ta đi đâu?” của danh họa Paul Gauguin (1848 – 1903) trên
Internet, tôi như thấy cuộc hành trình của con người trong kiếp sống vô thường
này. Đó là sự trăn trở đúng nghĩa đầy chất NGƯỜI trong cõi nhân gian. Đã là NGƯỜI
dù có trở trăn cũng phải chấp nhận phận NGƯỜI như là sứ mệnh của mình. Nói như
chúa Kitô là mình phải tự vác thập giá của mình:
“Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập tự giá mình mà theo” (theo
Mác-cô, Tân Ước); nói như Đức Phật trước khi nhập Niết Bàn là phải tự thắp
đuốc mà đi: "Này! Các người phải tự mình thắp
đuốc lên mà đi! Các người hãy lấy Pháp của ta làm đuốc! Hãy theo Pháp của ta mà
tự giải thoát! Ðừng tìm sự giải thoát ở một kẻ nào khác, đừng tìm sự giải thoát
ở một nơi nào khác, ngoài các người!.." (theo buda.vn). Tất cả đều
cho ta chấp nhận sống sao cho ra sống:
“Người là TA, một mùa Xuân tỏa ánh nắng
mai
Bước lên đời mang một duyên tình
duyên mới
Người là TA, đường nhân ái còn đi mãi
mãi
Hết bước Xuân, TA gọi nhau về trong
NGƯỜI”
(Xuân Hành, Sài Gòn 1959)
Trong bài
“Xuân Thì” (Sài Gòn 1953), bài ca đẹp như bài thơ viết về mùa Xuân của đất Mẹ
Việt Nam. Mùa Xuân đến, chuyện chiến chinh lùi xa. Chỉ còn lại hy vọng tốt lành.
Mùa Xuân quả thực đem đến nhiều hy vọng mỗi chúng ta: “Ngày mà Thượng đế tạo ra
hi vọng có lẽ cùng một ngày ngài tạo ra mùa Xuân” (Bern Williams). Và cũng vậy,
Phạm Duy hy vọng một mùa Xuân hòa bình chỉ còn lại nỗi mừng vui khi yêu thương
tràn ngập:
“Tình ra núi Bắc, non Đông
Duyên về tới chốn Nam sông, Tây rừng
Gọi đàn chim trắng như bông
Tin lành đưa xuống khắp vùng trên nước
ta
Êm êm tiếng hát trăng tà
Tình soi trên phím tay ngà gái trinh
Người ôm nhân loại trong mình
Cười tuôn nước mắt cho Xuân tình dấy
men”.
Với niềm
hy vọng về mùa Xuân tốt đẹp, Phạm Duy như muốn hóa thành hoa tỏa hương, đem
thương yêu, niềm vui đến với mọi người, đem tình yêu đua nở dâng hiến cho đời.
Trong niềm vui yêu thương ngập tràn hương hoa mùa Xuân, tác giả cảm nhận được
bao thôn nữ hân hoan thưởng ngoạn hoa Xuân, chúc tụng mùa Xuân thái hòa, nghe
được tiếng lòng của bao cụ già thầm mơ hoa trẻ mãi:
“Xuân! Hoa tỏa hương mới
Nhân quần ân ái đã kêu đòi niềm vui
Xuân! Hoa là tình tôi
Đua nở cùng ai cùng quyến luyến mọi
nơi
Có một bầy thôn nữ nhìn hoa
Chúc cho Xuân vui vẻ thái hòa
Có một vài tóc trắng thầm mơ
Ước cho hoa nở mãi không già”
(Hoa Xuân, Sài Gòn 1953)
Mùa Xuân đối với Phạm Duy không những tốt đẹp
mà còn hiền. Ông ao ước được sống trong cõi Xuân hiền ấy. Cõi Xuân hiền ấy là
cuộc tái sinh như thể đất trời mãi là Xuân:
“Xuân non, Xuân già, Xuân vẫn Xuân
quen
Mới biết Xuân là cuộc tái sinh duyên
Thu, Đông, Hạ chết
Nhưng Xuân còn nguyên
Khuyến khích dòng máu về tim
Xuân không lên đường, Xuân đứng êm êm
Đứng mãi trong đời để cõng ta lên
Yêu Xuân đằm thắm
Yêu Xuân một phen
Và sống cùng với Xuân hiền”…
(Xuân Hiền, Sài Gòn 1972)
Còn trong
bài “Xuân Ca” (Sài Gòn, 1961), cái tôi đầy sức Xuân của Phạm Duy tràn ngập khao
khát. Khao khát ấy chính là hoài bảo, khát vọng sống cống hiến dù biết rằng, đã
là người thì ai cũng sẽ chết, sẽ thành tro bụi chốn hồng trần. Bởi lẽ, còn Xuân
là còn mơ ước, hy vọng, là còn trẻ mãi đầy sức sống theo thời gian, bởi “Không
bao giờ là quá già để đặt ra mục tiêu khác hoặc một giấc mơ mới” (S. Lewis):
“Xuân tôi ơi, sức Xuân tôi còn khát khao
Dù
nay, dù mai cũng như mọi ai chết trong địa cầu
Xuân
muôn năm có ta Xuân còn hỡi Xuân
Thì
xin, thì Xuân hãy cho tình nhân sống thêm vài lần”
Có thể khẳng định rằng, qua một số lời
bài hát viết về mùa Xuân, Phạm Duy đã góp phần không nhỏ vào việc làm đẹp cho
tiếng Việt, giúp cho người nghe càng thêm yêu tiếng nói của mình như ông đã từng
cất lời “Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới
ra đời” (Tình Ca).
Tháng 10/2019
Phan Trang Hy
Bài này in trong NGÔN NGỮ số 05 (tháng 01&02/2020)