Phan
Trang Hy
nguồn http://dantri.com.vn/ban-doc/qua-chieu-doi-do-nghi-ve-hau-due-vuong-trieu-ly-1285309905.htm
nguồn http://dantri.com.vn/ban-doc/qua-chieu-doi-do-nghi-ve-hau-due-vuong-trieu-ly-1285309905.htm
Năm 1009, Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế.
Thấy Hoa Lư chật hẹp, không còn phù hợp với sự phát triển lớn mạnh của đất nước,
nên năm 1010, nhà vua ra chiếu, dời đô từ Hoa Lư ra Đại La. Việc dời đô nhằm mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho
con cháu ; trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu thấy thuận tiện thì thay
đổi. Điều đó không chỉ là mục đích của Lý Công Uẩn mà còn là ước nguyện của
dân Đại Việt lúc bấy giờ.
Chắc chắn một điều, ai cũng thấy, cũng
hiểu giản đơn về một triều đại suy vong là bởi hậu duệ của triều đại đó không
hành xử đúng theo mong ước của các bậc tiên đế. Và hậu duệ vương triều Lý cũng
vậy. Bởi họ theo ý riêng mình, khinh
thường mệnh trời, [...], khiến cho triều đại không được lâu bền, số vận ngắn
ngủi, trăm họ phải hao tốn, muôn vật không được thích nghi. Sống theo ý riêng mình là không nghe lời
trung chính của quần thần, của người có đạo học ; là không hiểu ước vọng của
dân chúng muốn có cuộc sống bình an, hạnh phúc ; là không sống với cái khốn
khó, cái đau, cái thất tình của dân chúng. Sống như thế thì làm sao có thể nắm
vận mệnh quốc gia, dân tộc. Không những thế, họ còn khinh thường mệnh trời. Ở đây, khinh
thường mệnh trời có thể hiểu theo quan niệm hiện nay là duy ý chí, là bảo
thủ, là mông muội, là khinh thường quy luật tạo hoá. Bởi đã là quy luật tạo hoá
thì không thể không dời đổi. Quy luật
ấy khách quan biến dời, đổi thay sao cho phù hợp với lòng người. Chỉ có sự dời
đổi theo ý nguyện của dân thì mới có thể trường tồn, bất diệt.
Muốn mưu
toan nghiệp lớn, tính kế lâu dài cho con chúa ắt phải có vua tài đức. Nhà
Lý đến đời vua Nhân Tông ( 1072 - 1127 ) đã đạt đến đỉnh cao của sự thịnh trị.
Có được vận nước lâu dài phồn thịnh vì vua Nhân Tông “là người sáng suốt khôn
ngoan, nhân hiền, hiếu nghĩa. Vua nghe lời can ngăn, cầu kẻ hiền tài, ít tạp
dịch, thuế khoá nhẹ. Bấy giờ nước lớn
phải sợ ; nước nhỏ phải mến, thần giúp người theo, dân thì đông giàu, mình
thì thái bình. Thực là ông vua giỏi ở triều Lý” ( Phan Huy Chú, “Lịch triều
hiến chương loại chí”, bản dịch Nxb Sử học HN, 1960 ).
Còn đi ngược lại ý dân, khinh thường mệnh trời
tất bị diệt vong. Từ đời Anh Tông ( 1138 – 1175 ) trở về sau thì chính sự triều
Lý dần sút kém. Đó là bởi vua bất tài nhu nhược ; bởi quyền hành nằm trong tay ngoại thích, trong tay bọn mọt nước hại
dân, lộng hành tham bạo. Dẫu sau đó có sám hối thì sự đã rồi. Sử cũ có chép năm
1207, vua Cao Tông thấy giặc cướp nổi lên như ong, bèn hối lại lỗi xưa, nhân đó
tự trách mình hèn kém ở tận nơi cửu trùng không biết cảnh khó khăn của dân
chúng, nghe lời bọn tiểu nhân mà gây nên oán với kẻ dưới. Nhưng triều Lý vẫn
suy vong, bởi sau khi Cao Tông chết, con là Sảm lên thay, hiệu là Huệ Tông, cũng
là một ông vua hèn yếu, để cơ đồ phải mất.
Là hậu duệ của vương triều Lý, có kẻ nên,
người hư. Việc định đô của Lý Công Uẩn ở Thăng Long tưởng là triều Lý vững bền
muôn thuở. Thế nhưng, việc chọn định đô không bằng việc ổn định lòng dân. Ổn
định lòng dân là theo ý dân. Theo ý dân là vâng mệnh trời, thấy thuận tiện thì
thay đổi. Lịch sử nước ta từng nhiều lần bỏ Thăng Long khi thế giặc ngoại xâm
mạnh, nhưng lòng dân còn thì trước sau gì cũng lấy lại được. Thuận lòng dân, ý
dân thì dẫu không đế đô, không thành trì vẫn cứ vững bền. Không thuận lòng dân,
ý dân thì dẫu có xây đô, xây thành vững chắc theo thời gian như Tây đô, Hồ Quý
Ly vẫn cứ không giữ được thành, được nước.
Mừng 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, ngẫm Chiếu dời đô là chiếu nguyện của Lý Thái
Tổ, hợp với ý chí tự cường của nhân dân Đại Việt lúc bấy giờ. Có phải chiếu
nguyện ấy là khát vọng của dân tộc Việt hôm nay ?
Tháng 9-2010
P.T.H
Ghi chú : Những từ ngữ in nghiêng được
trích từ Thiên đô chiếu (Chiếu dời đô) của Lý Công Uẩn, bản dịch của Nguyễn Đức
Vân, trong Thơ văn Lý Trần, tập 1, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977.