Theo nhà văn Bùi Công Dụng thì “Thuyền độc mộc” là tiểu thuyết viết về “một trường đại học tư thục đầu tiên ra đời trong bối cảnh mà các khái niệm về tôn chỉ, mục đích, lợi nhuận, phi lợi nhuận… lại không được song hành cùng những cơ chế chính sách giáo dục hiện hành của nhà nước”, đã phản ánh được “mâu thuẫn giữa những nhà giáo có tâm huyết với những kẻ mua bán, tranh giành nhằm hưởng lợi từ những ưu tiên vật chất” để rồi con thuyền giáo dục “vượt qua những sóng gió để hoàn thành mục tiêu tốt đẹp của mình”.
Đọc “Thuyền
độc mộc”, ấn tượng cho người đọc là tên tác phẩm. Chính tiêu đề “Thuyền độc mộc” kích thích người đọc cần
phải đọc, để xem, để cảm chất liệu ngôn từ tạo nên “thuyền độc mộc” vượt qua thác ghềnh, sông lũ đời thực ở trong tác
phẩm. Đọc cả tác phẩm, hình ảnh con thuyền chỉ xuất hiện ở phần kết, nhưng hàm
chứa nội dung cần truyền tải. Con thuyền ấy là con thuyền Đại học Tây Hồ “lừng lững len lỏi đi trong thác ghềnh”
và con thuyền ấy “được tạo bởi một chất
liệu đồng nhất, tinh khiết và đầy linh hoạt đã phát hiện và chống chọi lại những
bãi ngầm đe dọa đường đi của nó” (tr 336).
À ra vậy! Cái kết có hậu thật: “Con thuyền độc mộc ấy mặc nhiên cứ lặng lẽ
lướt đi...” (tr 337). Con thuyền lặng lẽ lướt đi như bỏ lại đằng sau nó bao
cản ngăn. Và người lèo lái con thuyền ấy không ai khác là Nguyễn Nguyên - chủ tịch
hội đồng quản trị Đại học Tây Hồ, người cả cuộc đời còn lại bằng nhiệt huyết
canh tân. “Ông muốn có một ngôi trường mà
ở đó người ta chuyển tải được những giá trị phổ cập của nhân loại, những nội
dung về quản lý một xã hội pháp trị, một nền tự do, dân chủ… mà đối tượng học tập
không phải là những bậc trí thức cao siêu gì, mà chính là những người lao động
bình thường nhất” (tr 18, 19). Cùng ngồi trên chiếc thuyền ấy là thầy hiệu
trưởng Như Văn. Họ cùng chung thuyền “mang
tên nhà chí sĩ cách mạng, nhà văn hóa Phan Tây Hồ nổi tiếng với chủ trương canh
tân dân trí đất nước của thế kỷ trước” (tr 15, 16). Rõ ràng ở họ mang khát
vọng của Phan Châu Trinh một thời “khai
dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”. Khát vọng ấy là khát vọng của người
Quảng Nam – Đà Nẵng, là khát vọng của cả dân tộc Việt Nam. Tiếc thay khát vọng ấy
chỉ còn lại dư âm của thế kỷ đã qua.
Nếu bạn từng đọc tiểu thuyết “Thế kỷ bị mất” của nhà văn Phạm Ngọc Cảnh
Nam chắc sẽ bắt gặp khát vọng canh tân của những kẻ sĩ một thời tao loạn như
Phan Châu Trinh, Lê Cơ, Tăng Bạc Hổ, Nguyễn Thành… Khát vọng ấy quả là đau đớn
tột cùng khi chỉ là khát vọng, khi chưa thành hiện thực. Và giờ đây, ở “Thuyền độc mộc”, khát vọng canh tân được
âm ỉ trong lòng Nguyễn Nguyên: “Ông đâu
có đòi hỏi gì nhiều. Dưới con mắt nhìn của ông, cái họa đói nghèo của dân sinh
và cái họa ngu dốt của dân trí đâu có còn ngự trị phổ biến tại cái xứ này như
nhiều chục năm về trước, mà cần cái đạo đức, cái văn minh văn hóa của dân tộc
kia. Đó, cái dân khí đó! Tại sao mấy nước Bắc Á, Nam Á, Đông Á quanh ta, sau
chiến tranh cũng đói khổ như ta, cũng ê chề lạc hậu như ta, mà chỉ qua mấy chục
năm, họ vụt biến thành những con rồng ngạo nghễ, họ có một đất nước văn minh,
con người khoáng đạt, khí chất tinh tường!” (tr 18). Khát vọng ấy giờ được
thổi bùng lên truyền đến Nguyễn Như Văn - hiệu trưởng Đại học Tây Hồ, đến các vị
lãnh đạo địa phương Yên Thành và Tỉnh.
Thế nhưng, khát vọng cháy bỏng ấy bị cản
trở bởi thế lực bảo thủ, tham lam, đốn mạt. Cái thế lực ấy đi ngược lại tôn chỉ
mục đích của trường là “phi lợi nhuận”
trong giáo dục. “Rõ ràng trong cuộc chiến
này. Một bên là ông (Nguyễn Nguyên) – thuộc những người quyết tâm đổi mới nền
giáo dục nước nhà – với bên kia, một nhóm người mà ông đã chứng minh và vạch trần
cho xã hội thấy đó là những kẻ buôn bán giáo dục” (tr 231).
Cái thế lực cản trở ấy là Trần Chí, Ngu
Trứ, Lâm Yến… Bọn chúng lợi dụng quyền hành để trục lợi, lợi dụng chức vụ để âm
mưu giành chiếm cả cơi ngơi của một trường đại học vừa hình thành. Làm sao quên
được một Trần Chí biết làm sai mà vẫn cứ làm, coi thường cả luật pháp. Hắn “chỉ là loại trí thức xôi thịt, mưu đồ lấy
lòng lãnh đạo địa phương để từng bước len lỏi vào chiếm đoạt ngôi trường…, chứ
có bao giờ mở miệng nói vài câu về hoạch định phát triển giáo dục…” (tr
257). Còn Phó Thanh tra Ngu Trứ “mới học
tới cao đẳng, ở lâu thành lão làng được mon men vào cái ghế của tay chánh chuẩn
bị về hưu” (tr 100) và rồi làm mãi công việc thanh tra, “thuộc được vài bài nghiệp vụ, rồi lại cũng
trên tinh thần sai đâu sửa đấy chứ chả tư duy động não gì…” (tr 285). Riêng
viện phó Lâm Yến là kẻ luôn tìm cách bao che cho nhóm Trần Chí, làm phân hóa
cán bộ của cơ quan Viện Canh tân.
Cái thế lực cản trở sự đi lên cùng với sức
ì, sự tham lam đời nào cũng có. Trong kịch bản “Tôi và chúng ta”, Lưu Quang Vũ đã phản ánh cuộc đấu tranh gay gắt để
thay đổi lề thói hoạt động sản xuất, thay đổi tư duy trong tổ chức bộ máy sản
xuất ở xí nghiệp Thắng Lợi giữa một bên là tư tưởng bảo thủ, bu bám lấy nguyên
tắc xơ cứng, quy chế lạc hậu, lỗi thời với một bên là tư tưởng khát khao đổi mới,
với hành động dám nghĩ dám làm vì lợi ích của mọi người. Còn trong tiểu thuyết “Thuyền độc mộc”, cuộc đấu tranh với thế
lực bán buôn trong giáo dục cũng được tác giả đẩy lên thành kịch tính, nhất là ở
những chương cuối của tác phẩm.
Chính tính kịch đó đã chi phối toàn bộ
cách viết của tác giả. Người đọc ít bắt gặp những trang miêu tả cảnh, độc thoại
nội tâm nhân vật, ít bắt gặp những trang viết mượt mà của thể loại tiểu thuyết.
Thường thì bắt gặp những lời thoại, hành động của nhân vật trong từng tình huống
cụ thể.
Đọc “Thuyền
độc mộc” với tâm thế nghiền ngẫm, nghiên cứu mới được. Nếu đọc để giải trí
thì khó cho người đọc. Tuy nhiên, người đọc vẫn thấy dụng ý nghệ thuật xây dựng
truyện của tác giả. Đó là, không gian và thời gian nghệ thuật được tác giả chọn
phù hợp với hành động của nhân vật. Không gian trong tiểu thuyết này chỉ xoay
quanh hai nơi là ở Viện Canh tân và ở trường Đại học Tây Hồ. Thi thoảng cũng có
vài nơi khác, nhưng các nơi ấy không xa Viện Canh tân, hoặc lại gần Đại học Tây
Hồ. Không gian nghệ thuật ở hai nơi cũng phản ánh được sự tranh đấu giữa cái tốt
với cái xấu. Còn thời gian nghệ thuật được nhà văn chọn trong thời gian từ khi
thành lập trường với bao vất vả của cơ chế trong giáo dục đại học để rồi “Trong thực tế xã hội luôn tìm cách vượt qua
những tàn dư trở ngại đó. Vấn đề tự chủ trong đào tạo đại học đã không ngừng được
điểm danh hàng ngày trên truyền thông báo chí. Những nội dung về quyền tự xác định
chi tiêu, tự tuyển sinh, tự quyết định phương thức xét tuyển hay thi tuyển, tự
quản lý và cấp văn bằng chứng chỉ, tự tổ chức biên soạn và chọn giáo trình giảng
dạy, tự quyết định chương trình và thời gian đào tạo… là những vấn đề đang nổi
lên như sóng cồn, như muốn quét mạnh vào thành trì bảo thủ của nền canh tân dân
trí đất nước” (tr 336, 337).
Nhà văn Bùi Công Dụng đến thời điểm này
đã xuất bản 8 tác phẩm truyện, ký, tiểu thuyết. Riêng tiểu thuyết có ba tác phẩm.
Đó là “Quyền lực” (2010), “Đất chùa” (2014), “Thuyền độc mộc” (2015). Nếu “Quyền
lực” ẩn hiện bóng dáng ma mãnh dựa vào thủ đoạn trong kinh tế - chính trị,
thì “Thuyền độc mộc” cũng hiện lên những
thủ đoạn tinh quái của những kẻ nhân danh giáo dục lại đầu cơ giáo dục. Nếu “Đất chùa” là cuộc đấu tranh lấy lại đất
của tổ tiên với bọn đội lốt tôn giáo, bọn viên chức biến chất, thì “Thuyền độc mộc” là cuộc đấu tranh không
khoan nhượng với bọn trục lợi giáo dục.
“Thuyền độc mộc”
đang chở khát vọng canh tân đến với người đọc.
Tháng 10 – 2015
Phan Trang Hy